CL - JDP (Journal Donation Project)

112 ấn phẩm có sẵn

Tóm tắt

Đây là bộ sưu tập gồm những bài dịch từ các tạp chí ngoại văn chuyên ngành: Nhân học, Xã hội học, Kiến trúc và quy hoạch đô thị, Nghệ thuật đương đại, Môi trường,…được dịch từ các chuyên gia thuộc tổ chức JDP (Journal Donation Project) tại Việt Nam. Tài liệu trong bộ sưu tập được tham khảo tại website: http://www.newschool.edu/cps/subpage.aspx?id=53035

Những tài liệu tải lên gần đây

Đang hiển thị 1 - 6 của tổng số 112 kết quả
Hiển thị
  • Ấn phẩm
    Sự khác biệt về quản trị Các bon ở các nước công nghiệp mới = Varieties of Carbon Governance in Newly Industrializing Countries
    (2009) Fuhr, Harald; Lederer, Markus; Trần, Chí Trung; Lê, Đức Minh
    Các hệ thống quản trị các bon mới thiết lập gần đây ở các quốc gia Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ rất khác nhau. Sự khác nhau chủ yếu do quản trị các bon thông qua cơ chế phát triển sạch (CDM). Tác động về chính sách và thể chế được trông đợi là giống nhau ở các nền kinh tế mới nổi áp dụng cơ chế CDM vì công cụ thị trường chủ yếu do các công ty phương Tây khởi xướng và do Ban điều hành quốc tế CDM quản lý. Tuy nhiên, qua phân tích các bên liên quan chính, sự tương tác giữa các bên, phản hồi về mặt thể chế và hiệu quả của CDM ở các thị trường CDM ở Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ cho thấy có sự khác biệt lớn liên quan đến sở hữu của các cơ quan nhà nước. Sự khác biệt giữa các hệ thống quản trị các bon rất đáng quan tâm theo quan điểm lý thuyết và cho thấy hiểu biết về các hình thức quản trị môi trường các nước công nghiệp mới còn hạn chế. Bên cạnh đó phát hiện từ phân tích này cũng có ý nghĩa chính trị trong việc hỗ trợ phổ biến các chỉ trích về CDM.
  • Ấn phẩm
    Những vấn đề về tổ chức và phát triển quản lý tổng hợp tài nguyên nước sông Sài Gòn = Institutional and Development Issues in Integrated Water Resource Management of Saigon River
    (2009) E. Sajor, Edsel; Nguyễn, Minh Thu
    Bản báo cáo tập trung vào những vấn đề về công tác tổ chức liên quan đến tài nguyên nước, thách thức và cơ hội để phát triển khả năng quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh luật pháp chính sách, mục tiêu phát triển hiện tại và quá trình cải cách đổi mới, lấy sông Sài Gòn làm ví dụ. Nghiên cứu trên 3 vấn đề hạn chế nghiêm trọng nhất để có thể quản lý tổng hợp nguồn nước (IWRM): (a) bộ máy quan liêu rời rạc, (b) hệ thống quản lý từ trên xuống gây ra những tác động tiêu cực đến sự tham gia của nhà đầu tư, và (c) quyền lực tập trung. Chúng tôi cũng nhấn mạnh đến mục tiêu phát triển công nghiệp và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng dẫn đến quản lý môi trường nước và sôngkhông được quan tâm đúng mức. Người viết cho rằng dù cho cơ chế quản lý hiện tại của các cơ quan chức năng liên quan đến các vấn đề về nước có mâu thuẫn với phương pháp quản lý tổng hợp nguồn nước, những yếu tố ngoại sinh có thể thúc đẩy sự cải cách trong việc quản lý nguồn nước. Hiện nay, chính quyền đang tiến hành chuyển đổi vai trò và phân quyền tại địa phương cũng như đề cao sự hợp tác với những tổ chức quốc tế, đặc biệt là những cơ quan hỗ trợ phát triển.
  • Ấn phẩm
    Vai trò của khoa học trong quản lý toàn cầu về sa mạc hóa = The Role of Science in the Global Governance of Desertification
    (2009) Bauer, Steffen; C. Stringer, Lindsay
    Sa mạc hóa là vấn đè được quan tâm trong cả khoa học môi trường và sự phát triển. Trong bài báo này, chúng tôi chủ yếu đề cập đến mối quan hệ giữa vấn đề khoa học và chính sách trong các công ước Liên hợp quốc về chống sa mạc hóa (UNCCD), và cơ quan trợ giúp - Ủy ban khoa học và công nghệ. Chúng tôi cho rằng những tác động còn hạn chế của UNCCD trong việc chống lại quá trình sa mạc hóa có thể do nhiều tác nhân khác nhau, trong đó một phần quan trọng là không có sự tương tích giữa vấn đề chính trị và các khoa học. Trên thực tế, một bộ phận lớn các ý kiến khoa học quốc tế có thể giúp thúc đẩy việc thực thi những quy định của công ước trên thục tiễn; nhưng những hạn chế về thể chế và cơ cấu tổ chức cho sự phối hợp và thực hiện giữa UNCCD và cộng đồng khoa học liên quan tới sa mạc hóa đã hạn chế phát huy tiềm năng thực hiện chúng. Những quyết định được thông qua trong các kỳ hội nghị đa phương gần đây nhất của UNCCD (2007) đã chú ý khắc phục vấn đề này, mặc dù đã đánh dấu một bước tiến quan trọng cho thời gian sau này nhưng nó vẫn còn hoài nghi về tính hiệu quả có đủ khả năng để giải quyết những căn nguyên gốc rễ nằm sâu bên trong những vấn đề này hay không.
  • Ấn phẩm
    Rừng, nhiên liệu hay lương thực? Các liên minh cạnh tranh và hoạch định chính sách nhiên liệu sinh học ở Philipin = Forests, Fuel, or Food? Competing Coalitions and Biofuels Policy Making in the Philippines
    (2011) F. Montefrio, Marvin Joseph; A. Sonnenfeld, David
    Là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á xây dựng pháp chế về nhiên liệu sinh học, Cộng hòa Philipin được xem là hình mẫu về việc thực thi pháp chế này trong khu vực. Bài báo này sử dụng trường hợp Philipin để giải thích sự cạnh tranh giữa các liên minh trên phương diện chính sách diễn ra thế nào trong việc hình thành và thay đổi chính sách nhiên liệu sinh học. Phân tích về nội dung các bài báo và các tài liệu của Chính phủ được công bố từ 2002 đến 2009 cho thấy có bốn liên minh chính: Những người đề xướng nhiên liệu sinh học, Khả năng kỹ thuật, An ninh lương thực, và Bảo tồn rừng. Đồng thời những liên minh này tạo nên sự khác biệt về mặt chính trị trong các văn bản về nhiên liệu sinh học ở Philipin. Trong những văn bản này, liên minh bảo tồn rừng là yếu hơn cả, điều này có nghĩa là ảnh hưởng của nó đến chính sách nhiên liệu quốc gia khá hạn chế. Điểm yếu của liên minh này có thể do nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và công chúng là bảo tồn rừng không gắn với kinh tế xã hội và phần nào là do trạng thái trầm lắng làm cho đất rừng nguyên sinh thiếu giá trị môi trường thiết yếu ở rất nhiều các quần đảo.
  • Ấn phẩm
    Một năm với những thay đổi sâu sắc mang đến cơ hội để suy ngẫm lại giá trị của thuế môi trường = A Year of Dramatic Change Brings Opportunity to Rethink the Value of Environmental Taxes
    (2009) Clémençon, Raymond
    Năm 2008 đã trở thành một năm với những thay đổi sâu sắc. Nó đi vào lịch sử như một năm mà hệ thống tài chính quốc tế lao dốc, và chỉ khi những gói cứu trợ lớn được bơm vào mới có thể ngăn chặn sự sụp đổ kinh tế tổng thể. Một lý do mang tính lịch sử khác đó là cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ (Tổng thống Barak Obama). Không những đây là tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ mà đây còn là sự kiện tạo hy vọng cho người dân trên toàn thế giới, những người tin rằng những vấn đề rối ren toàn cầu hiện nay chỉ có thể giải quyết được bằng con đường đa phương và liên quan đến tất cả các chính đảng. Sau 8 năm thực hiện chính sách đơn phương đối ngoại, Hoa Kỳ đã lờ đi một cách có hệ thống những ý thức hệ khoa học về các xu hướng toàn cầu và quan điểm khác nhau trong việc làm thế nào để giải quyết những vấn đề. Có những dấu hiệu cho thấy nền kinh tế hàng đầu thế giới sẽ trở lại với chính sách đối ngoại được xây dựng trên một tinh thần hợp tác mới.
  • Ấn phẩm
    Khái niệm hóa thủ công
    (2008) Clark, Garth
    Thủ công vẫn là một lĩnh vực thú vị và chưa được khai phá, nó liên quan tới đạo đức, chính trị, thực tiễn và mỹ học theo những cách khác nhau chứ không chỉ đơn thuần là nghệ thuật. Và có những bằng chứng cho những mối quan tâm về lý thuyết và lịch sử của thủ công đang tăng dần lên. Glenn Adámon là một trong người hiệu đính sáng lập ra một tạp chí mới về mỹ học và lịch sử của thủ công, Tạp chí Thủ công Hiện đại (Journal of Modern Craft) (Berg), được xuất bản lần đầu vào tháng Ba. Một cuốn sách giáo khoa về lịch sử thủ công hiện đại đang được viết, và PBS đã giới thiệu Thủ công ở Hoa Kỳ. Một trong những lý do của việc ít người viết về thủ công là kể từ Thế chiến thứ II, lý thuyết thủ công đã bị gói gọn trong một lý luận một chiều, nghe có vẻ hợp lý “thủ công là nghệ thuật”. Đây là một trong những nguyên nhân cốt lõi của cuộc khủng hoảng về thủ công ngày nay. Các tổ chức đang trở nên hạn chế, những tư tưởng dẫn đường đang bỏ qua “chữ o”, việc đưa sản phẩm ra thị trường đang yếu dần. Chừng nào thủ công còn chịu tác động lớn của nghệ thuật, những thợ thủ công (chiếm con số vài trăm trong số vài ngàn làm nghệ thuật ở Hoa Kỳ) sẽ không thể tìm được một định nghĩa về thủ công trong thế kỷ 21. Có cuốn sách nào trong số trên sẽ giúp thủ công ra khỏi vũng lầy này.